50 - Người Thái ( Việt Nam )

Người Thái

Trang phục dân tộc Thái trắng Sơn La (ảnh chụp tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

Tổng số dân1.328.725 (1999)
1.550.423 (2009)Khu vực có số dân đáng kểSơn La, Nghệ An, Thanh Hóa, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hòa BìnhNgôn ngữTiếng Thái, tiếng ViệtTôn giáoPhật giáoDân tộc thiểu số có liên quanThái (Trung Quốc), Thái (Thái Lan), người Lào, người Shan, người Ahom.

Thông tin sưu tầm từ Internet chỉ mang tính chất tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm bất cứ sai sót nào nếu Quý Khách sử dụng thông tin này vào việc riêng.

Mã sản phẩm:

Giá: Liên hệ

Số lượng:

Mua ngay
Last post loader..
 

Người Thái còn được gọi là Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là con cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.

Lịch sử

Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history (Thái quốc: Lịch sử tóm lại)", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam

Theo sách sử Việt Nam, vào thời nhà Lý, đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại nhà Trần và bị đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mương Lễ, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (Sơn La), Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại thành vùng (thừa tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ: An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.

Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ tạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quý tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận; họ Hoàng ở châu Việt...

Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Pháp là Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trị được cử làm quan của đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3, 1948 lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1975.

Dân cư

Dân số và địa bàn cư trú

Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân là 1.328.725 người[5], chiếm 1,74% dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai châu {Mương Lay}, Điện Biên [Mương Thèng ], Lào Cai, Yên Bái [ Mương Lo ], Sơn La [ Mương La ], Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (số lượng người Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6% tổng số người Thái ở Việt Nam)và một số ở Tỉnh Lâm Đồng và Đaklak. Trong đó tại Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491 người (9,4 % dân số), Thanh Hóa có 210.908 người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam có dân số 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La [Mương La] (572.441 người, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng số người Thái tại Việt Nam), Nghệ An (295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam), Thanh Hóa (225.336 người, chiếm 6,6% dân số toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam), Điện Biên [Mương Thèng ] (186.270 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại Việt Nam), Lai Châu [ Mương Lay ] (119.805 người, chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam), Yên Bái [ Mương Lo ] (53.104 người), Hòa Bình (31.386 người), Đắk Lắk (17.135 người), Đắk Nông (10.311 người)

Các nhóm người Thái

  • Nhóm Thái Đen (Táy Đăm/Taidam/ไทดำ) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên (Mương La & Mương Thèng). Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi qua Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào. Dân số của nhóm Thái Đen tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 699.000 người trong tổng số 763.950 người Thái Đen trên toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 50.000 người Thái Đen hay Tày Mười sinh sống tại tỉnh Khammouan, Lào (số liệu 1995); 10.000 người Thái Đen (một phần của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số liệu 1995) và 700 người Thái Đen sinh sống tại tỉnh Loei, Thái Lan (số liệu 2004, nhóm này đến Thái Lan vào năm 1885)
  • Nhóm Thái Trắng (Táy Đón/Táy Khao/ไทขาว) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc. Dân số của nhóm Thái Trắng tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 280.000 người trong tổng số 490.000 người Thái Trắng trên toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 200.000 người Thái Trắng sinh sống tại Lào (thống kê năm 1995); 10.000 người Thái Trắng (một phần của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số liệu 1995)
  • Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) và các huyện miền núi như Bá Thước (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ An). Dân số của nhóm Thái Đỏ tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 140.000 người trong tổng số 165.000 người Thái Đỏ trên toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 25.000 người Thái Đỏ sinh sống tại tỉnh Sam Neua, Lào (số liệu 1991)
  • Một số nhóm có dân số ít hoặc chưa được phân định rõ ràng như Tày Mười (Thái Quỳ Châu) có khoảng 300 người (2002), Tày Mường (Thái Hàng Tổng) có khoảng 10.000 người (2002), Tày Thanh có khoảng 20.000 người (2002), Phu Thai (hay Phutai, Putai, Puthai, Puthay) với dân số 209.000 người (2002) (ngoài ra tại Thái Lan có khoảng 470.000 người (2006), tại Lào có 154.000 người (2001) và tổng số người Phu Thai trên thế giới là 833.000)

Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.

Họ của người Thái

Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La), Lộc(Lục), Lự, Lường (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), lang, Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.

Ngôn ngữ

Người Thái nói các thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái (Thái Lan), tiếng Lào của người Lào, tiếng ShanMyanmartiếng Choang ở miền nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, 8 sắc tộc ít người gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.

Đặc điểm kinh tế

Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.

Văn hóa

 
Múa sạp trong lễ hội của người Thái tại Mai Châu, Hòa Bình

 
Múa quạt, người Thái tại Bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình

Hôn nhân

- Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như không có trừ vài trường hợp gia đình bên gái khó khăn quá. - Cô gái thái khi lấy chồng phải búi tóc (tẳng cẩu)

Tục lệ ma chay

Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".

Văn hóa dân gian

Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xon xao, Khun Lú Nàng Ủa. Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khăp tay. khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái.

Nhà cửa

 
Mô hình nhà người Thái Trắng (Lai Châu, Việt Nam) - Phòng trưng bày Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với người Việt và Hán là họ xây nhà sàn. Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốckhau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.

Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ thángkhay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.

Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam.

Trang phục

Có nhiều nhóm địa phương với những phong cách trang phục khác nhau.

Trang phục nam

Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam giới người Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc điểm của áo cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may (vì cơ bản giống ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc đa dạng của loại vải cổ truyền của cộng đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm, trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà phê... Trong các ngày lễ, tết, họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với lối cắt may dài, thụng, không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu., Trong tang lễ họ mặc áo xẻ nách màu cham đầu quấn khăn, chân đi guốc.

Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc âu phục khá phổ biến.

Trang phục nữ

Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo hai ngành Thái Tây Bắc là Thái Trắng (Táy khao) và Thái Đen (Táy đăm)

  • Thái Trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái Trắng mặc áo cánh ngắn (xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là màu sáng, trắng, cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong... Cái khác xửa cóm Thái Đen là cổ áo hình chữ V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen, phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi mặc xửa cóm và váy phụ nữ Thái còn tấm choàng ra ngoài được trang trí nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải chàm dài trên dưới 2 mét... Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo đầu thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng vải 'khít' ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng hay có chồng không có dấu hiệu quy định nhận biết... Họ có loại nón rộng vành.
  • Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc kkhi có chồng búi lên đỉnh đầu gọi là "Tằng cẩu";khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau gáy; chưa chồng không búi tóc. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái Trắng.
  • Trên 150 Bộ vui lòng liên hệ Hotline để được giá tốt nhất.                                

                     

BẢN QUYỀN THUỘC VỀ CÔNG TY TNHH FEP HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG
CSKH - Khiếu Nại Thắc Mắc : 08 556 557 57

CN Quận 3 :    643 Điện Biên Phủ, P1, Q.3, TP.HCM

                         Zalo : 0834 48 0000

CN Phú Nhuận : 3/30b Thích Quảng Đức, P.3, Q Phú Nhuận.

                     

                       Zalo 0834 48 0000

CN Cần Thơ : 41 Cách Mạng Tháng 8, P An Hoà, Q.Ninh Kiều TP.Cần Thơ

                       (029) 23 68 0000 - Zalo 0839 48 0000

CN Bình Dương : Khu Đô Thị Làng Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh - Thị Xã Dĩ An, Bình Dương
                           084 4811000 - Zalo 0834 48 0000

VP Chính :   3/30b Thích Quảng Đức, P.3, Q Phú Nhuận

                     

 

Sản phẩm khác:

Tây Nguyên

Tây Nguyên

Mã Sản Phẩm:

GIÁ THUÊ: 90.000

54 - Người X Tiêng

54 - Người X Tiêng

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

53 - Người Xơ Đăng

53 - Người Xơ Đăng

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

52 - Người Xinh Mun

52 - Người Xinh Mun

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

51 - Người Thổ

51 - Người Thổ

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

49 - Người Tày

49 - Người Tày

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

48 - Người Tà Ôi

48 - Người Tà Ôi

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

47 - Người Si La

47 - Người Si La

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

46 - Người Sán Dìu

46 - Người Sán Dìu

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

45 - Người Sán Chay

45 - Người Sán Chay

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

44 - Người Rơ Măm

44 - Người Rơ Măm

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

43 - Người Ra Glai

43 - Người Ra Glai

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

42 - Người Pu Péo

42 - Người Pu Péo

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

41 - Người Phù Lá

41 - Người Phù Lá

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

40 - Người Pà Thẻn

40 - Người Pà Thẻn

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

39 - Người Ơ Đu

39 - Người Ơ Đu

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

38 - Người Nùng

38 - Người Nùng

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

37 - Người Ngái

37 - Người Ngái

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

36 - Người Mường

36 - Người Mường

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

35 - Người Mông ( Người Mèo )

35 - Người Mông ( Người Mèo )

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

34 - Người M Nông

34 - Người M Nông

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

33 - Người Mảng

33 - Người Mảng

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

32 - Người Mạ

32 - Người Mạ

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

31 - Người Lự

31 - Người Lự

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

30 - Người Lô Lô

30 - Người Lô Lô

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

29 - Người Lào

29 - Người Lào

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

28 - Người La Hủ

28 - Người La Hủ

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

27 - Người La Ha

27 - Người La Ha

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

26 - Người La Chí

26 - Người La Chí

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

25 - Người Kinh

25 - Người Kinh

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

24 - Người Khơ Mú

24 - Người Khơ Mú

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

23 - Người Khơ Me

23 - Người Khơ Me

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

22 - Người Kháng

22 - Người Kháng

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

21 - Người H Rê

21 - Người H Rê

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

20 - Người Hoa

20 - Người Hoa

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

19 - Người Hà Nhì

19 - Người Hà Nhì

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

18 - Người Giẻ Triêng

18 - Người Giẻ Triêng

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

17 - Người Giáy

17 - Người Giáy

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

16 - Người Gia Rai

16 - Người Gia Rai

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

15 - Người Ê Đê

15 - Người Ê Đê

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

14 - Người Dao

14 - Người Dao

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

13 - Người Cơ Tu

13 - Người Cơ Tu

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

12 - Người Cờ Lao

12 - Người Cờ Lao

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

11 - Người Cơ Ho

11 - Người Cơ Ho

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

10 - Người Cống

10 - Người Cống

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

09 - Người Co

09 - Người Co

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

08 - Ngừoi Chứt

08 - Ngừoi Chứt

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

07 - Người Chu Ru

07 - Người Chu Ru

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

06 - Người Chơ Ro

06 - Người Chơ Ro

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

05 - Người Chăm

05 - Người Chăm

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

04 - Người Bru Vân Kiều

04 - Người Bru Vân Kiều

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

03 - Người Brâu

03 - Người Brâu

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

02 - Người Bố Y

02 - Người Bố Y

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

01 - Người Ba Na

01 - Người Ba Na

Mã Sản Phẩm:

Liên hệ

Kết nối với chúng tôi

 

Thống kê truy cập

phone icon image zalo icon image